Sách giáo khoa toán đầu tiên của nước ta

DS Bài Viết

Tác Giả:

Môn toán thời Lê Sơ được triều đình khá coi trọng. Trên thực tế, việc xây cất cung điện, đền chùa, chế tạo vũ khí cũng như làm cơ sở cho các môn khoa học khác như thiên văn học, luôn đòi hỏi phải tính toán.

Toán học thời kỳ này là toán học ứng dụng, với trình độ giải quyết các phép tính lập phương, khai bình phương, sai phân, tích phân và còn mang nhiều cách tính theo lối dân gian.

Hai nhà toán học nổi tiếng thời Lê sơ là Lương Thế Vinh và Vũ Hữu đã biên soạn ra những cuốn sách dạy toán được xem là sách giáo khoa toán đầu tiên của nước ta.
 

  • Vũ Hữu (1437–1530) người làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương với cuốn sách Lập thành toán pháp (立成算法)

Quyển sách này miêu tả các phép đo đạc cũng như cách tính xây dựng nhà cửa, thành lũy. Các phép đo ruộng đất được tính theo đơn vị mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước).

Sách Công dư tiệp ký ghi lại câu chuyện sau: Vua Lê Thánh Tông muốn thử tài của Vũ Hữu, nên đã giao cho ông sửa chữa ba cửa Đoan Môn, Đại Hưng và Đông Hoa của thành Thăng Long. Tuân lệnh, Vũ Hữu dùng thước đo chiều cao, chiều dài, chiều rộng của các cửa thành và tính ra số gạch đá, vật liệu phải dùng. Kết quả là khi xây xong, đá không thừa một tấc, gạch không thiếu một viên, quy mô các cửa thành được sửa chữa không sai một ly, một tấc. Vua Lê Thánh Tông rất hài lòng đã ban chiếu khen thưởng Vũ Hữu.

  • Lương Thế Vinh (1441–1496), sinh tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) dân gian còn gọi là Trạng Lường với cuốn sách Đại thành toán pháp (大成算法)


Trạng Lường Lương Thế Vinh

 
Hiện nay còn bản in Đại thành toán pháp thời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705 - 1719). Ngoài bảng cửu chương, sách còn nói về các số lớn: ức, triệu, kinh, thê, cai, nhương, giản, chinh, ti, cực. Cứ vạn vạn bậc dưới ăn một bậc trên, ví dụ: vạn vạn ức là một triệu, vạn vạn triệu là một kinh. Nhưng không cho biết vạn vạn là bao nhiêu.  Nếu vạn vạn = 10 giống như 10 chục là một trăm, mười trăm là một nghìn thì tại sao lại còn phân biệt cách đếm số lớn với số nhỏ. Cách đếm đó Tôn Tử gọi là Đại số pháp chú ý chữ đại ở đây là lớn, khác với chữ đại là thay (thay số bằng chữ trong đại số,

Môn toán được sĩ tử theo học khá phổ biến và có sức hấp dẫn đối với nhiều người trong xã hội. Năm 1506, vua Lê Uy Mục mở kỳ thi toán ở sân điện Giảng Võ, có tới 3 vạn người tới dự thi. Triều đình lấy đỗ 1519 người, trong đó 144 người đỗ loại giỏi. Nhà Lê tổ chức thi toán 10 năm 1 lần.



 

Nguyễn Đương tổng hợp