Trường thi xưa

DS Bài Viết

Tác Giả:

Thi cử đã xuất hiện ở VN từ gần 1.000 năm rồi, kể từ khoa thi đầu tiên năm Ất Mão 1075 đời Lý. Vậy thì ông cha mình đã tổ chức việc thi cử như thế nào? Sĩ tử học hành, ứng thí ra sao? Trường thi ngày xưa như thế nào? Việc chấm thi và công bố kết quả? Trường thi có xảy ra sự cố như bây giờ không?... Thí sinh ngày đó học gì?

Bắt đầu là học chữ Nho với các thầy đồ (gọi là sơ học), với các sách Tam thiên tự, Tam tự kinh, Hiếu kinh, Ấu học quỳnh lâm... 

Lớn lên chừng 10 tuổi bắt đầu làm quen những sách kinh điển của Nho giáo, như bộ Tứ thư (Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung), lần lần đến Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu), rồi Bắc sử (sử Trung Quốc), Nam sử (sử nước ta). 

Ngoài ra, còn phải đọc sách của Bách gia chư tử, tức sách của các triết gia Trung Quốc thời cổ đại; học thêm Đường thi, Tống thi, các áng văn tiêu biểu trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam; nghiền ngẫm những bài văn sách danh tiếng qua các đời... 

Đó là nội dung cơ bản của việc học. Tất thảy phải thuộc lòng, quên một chữ là phải tìm thầy để hỏi. Thử hình dung một khối lượng khổng lồ tri thức như vậy, hoàn toàn bằng chữ Hán, việc học gian nan biết chừng nào, hẳn sĩ tử phải học bằng quyết tâm sống còn mới có thể ra trường thi.

Nhưng kiến thức trên mới là phần cứng, còn làm bài thi lại là một sự vận dụng linh hoạt, đòi hỏi tài năng sáng tạo. Việc hành văn thì từ nhỏ đã tập viết, tập làm thơ. Khi đã thông làu kinh sử thì tập viết những bài văn. Khi bước chân vào kỳ hạch (khảo khóa, tức sơ khảo) ở địa phương, các thể loại kinh, văn sách, thi phú, văn tứ lục (tức các loại văn bản hành chính: chiếu, biểu...) thí sinh đã phải tường tận lắm rồi mới mong vượt được kỳ sơ khảo này.

Không quy định tuổi tác

Vì điều kiện dự thi không hạn định tuổi tác nên trẻ dưới hai mươi, già trên năm mươi đều có thể ứng thí. Cha con cùng đi thi, có trường hợp 82 tuổi vẫn còn đi thi như thí sinh Đoàn Tử Quang ở Hà Tĩnh năm 1900 . 

Trước kỳ thi hương tối thiểu là ba tháng phải tổ chức kỳ khảo khóa để sơ tuyển những người đủ tư cách và trình độ đi thi. Sau đó, lập danh sách trình lên trên để chuẩn bị kỳ thi hương. Người nào qua được kỳ khảo khóa này được gọi là thầy khóa (hay còn gọi là khóa sinh); chưa phải là học vị gì nhưng như thế cũng đã oai lắm rồi. Tuy nhiên, qua được kỳ khảo khóa, muốn dự thi hương phải còn xem xét một số tiêu chí ràng buộc về mặt hành chính mà ta quen gọi là “lý lịch” trong thi cử.

Cũng như các triều đại trước, hệ thống thi cử dưới thời Nguyễn gồm có ba kỳ: thi hương, thi hội và thi đình. Thi hương là kỳ thi ở địa phương, gồm một số tỉnh thi chung một trường, nhằm mục đích kén chọn người tài để vào dự thi hội và thi đình. Các trường miền Bắc thi hương khoảng tháng 10, miền Trung và Nam khoảng tháng 3 đến tháng 7.

 


Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912) với chòi canh và lều chõng của thí sinh

 
Thi từ sáng sớm đến tối mịt 

Trống điểm canh tư (chừng 1g sáng) thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên, đến khoảng canh năm tám khắc (khoảng 5g sáng) thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân (3-5 giờ chiều) thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một (tức 19g). Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày. 

Quan bắc loa gọi tên thí sinh vào trường thi
 
Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi (tức giấy làm bài thi đóng thành quyển), phải giữ gìn hết sức sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu. Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ mặt thì xong để chuẩn bị làm bài thi.

Tứ trường và thiên kinh vạn quyển

Theo Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, thi hương có khi thi ba vòng (người xưa gọi tam trường) có khi thi bốn vòng (tứ trường). Vòng một thi kinh nghĩa (tức các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo), vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ...), vòng ba thi thơ phú (sáng tác theo chủ đề của đề thi), vòng bốn thi văn sách (tương tự như thi tự luận). 

Một bài làm của thí sinh tại kỳ thi hội khoa 1913

 
Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi. Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, vì cái hay nó vô cùng.

Các giám quan coi thi
 
Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực: thiên văn, địa lý, bói toán, y học...; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!
 
Mang tài liệu vào trường thi: gông cổ, đánh 100 roi

Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” (là dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...); cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn. Các quy định đó xem ra cũng không khác gì bây giờ, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương. 

Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (không biết tránh chữ húy). Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình, đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua... 

Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ). Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.

Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh rớt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ (xóa bỏ), di (sót), câu (móc), cải (sửa) quá 10 chữ. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.

 


Xem bảng vàng niêm yết người đỗ đạt

 
Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường thi hương thì được học vị tú tài. Những thí sinh vượt qua được cả bốn trường thì được học vị cử nhân, được ban cấp áo mão, ban yến (đãi tiệc), rồi vinh quy bái tổ.

Tiếp tục cuộc đua tiến sĩ

Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi sang năm vào kinh đô dự kỳ thi hội, cùng với những cử nhân của các khoa trước đó, những thí sinh đã vượt qua một kỳ khảo hạch đặc biệt do triều đình, và một số ít quan lại muốn có học vị cao hơn. Cách thức làm bài và trường quy thi hội không khác mấy với thi hương, chỉ khác là phạm quy thì bị tội nặng hơn.

Thi hội không có truyền lô (xướng danh) nhưng lễ yết bảng (công bố kết quả) rất long trọng. Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách. 
Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.

Sau khi vua chấm bài thì học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, được thăm hoa ở vườn ngự uyển, được cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.


 
Hệ thống học vị dưới triều Nguyễn

1. Thi hương đỗ tam trường (ba vòng đầu), đạt học vị: tú tài; đỗ tứ trường: hương cống (về sau gọi là cử nhân); đỗ thủ khoa: giải nguyên.

2. Thi hội: đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị: phó bảng; đỗ thủ khoa: hội nguyên.

3. Thi đình: đỗ thi đình đạt học vị chung là tiến sĩ; đỗ thủ khoa: đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8-10 điểm được xếp bậc đệ nhất giáp. 10 điểm được lấy đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, thường gọi là trạng nguyên. 9 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn. 8 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.
 
Vinh quy bái tổ

Bài thi đình được vua chấm xong, khoa thi đã chọn được người đỗ tiến sĩ để niêm yết bảng vàng. Triều đình sẽ cử hành nghi lễ trang trọng xướng danh tiến sĩ tân khoa và ban yến. Sau đó, nhà vua sẽ ban ân tứ để tiến sĩ tân khoa vinh quy bái tổ.

Một đám rước vinh quy bái tổ
 
Truyền lô và ban yến

Truyền lô là thay mặt nhà vua xướng danh những người đỗ tiến sĩ. Lễ truyền lô khởi đầu từ khoa thi đình đầu tiên của triều Nguyễn (1822), được tổ chức ở điện Thái Hòa rất long trọng (về sau có lúc truyền lô ở Ngọ Môn, là hai nơi trang trọng nhất). Vào lúc canh năm (khoảng rạng sáng), súng lệnh nổ vang rền, một tấm cờ vàng được treo lên, điện Thái Hòa thiết lễ đại triều. Các thân công và quan lại mặc lễ phục đại triều đứng chờ.

Đến giờ lễ, vua ngự ra điện Thái Hòa. Các quan lại triều đình cùng các quan giám thí (coi thi), độc quyển (chấm thi) và các viên chức trông coi việc thi sẽ cùng hành lễ theo đúng nghi thức đại triều, xong trở về quỳ ở gian thứ nhất bên trái điện tâu xin nhà vua cho truyền lô. Sau khi nhận được chỉ thị của vua, quan khâm mạng rập đầu đứng lên, đi đến dưới điện xướng to: truyền lô! Bấy giờ quan truyền lô đến hoàng án mang danh sách trúng tuyển xuống. Trước đó, các quan giám thí, độc quyển đã dẫn các tân tiến sĩ vào Văn Công thự lãnh mỗi một người một bộ áo mũ, rồi đội mũ và mặc áo đứng chờ. Quan bộ lễ dẫn họ đến sân điện, xếp hàng quỳ quay mặt về hướng điện.

Quan truyền lô cầm danh sách tân tiến sĩ rồi lần lượt xướng danh theo thứ tự. Đọc xong giao cho bộ lễ tiếp nhận. Các tân tiến sĩ làm lễ năm lạy. Thị vệ đại thần đến trên thềm điện quỳ tâu xin vua cho niêm yết bảng. Bảng vàng được đặt lên vân bàn (mâm vẽ mây), quan hộ bảng dẫn thị vệ quân lính với đầy đủ nghi trượng tán lọng, cử hành nhã nhạc, rồi mang ra cửa Hữu Đoan, sau đó gánh bảng vàng đến Phu Văn Lâu. Bảng vàng niêm yết ở đây ba ngày, sau đó giao cho Trường Quốc Tử Giám lưu trữ.

Những người đỗ đạt được dự yến tiệc do vua ban
 
Sau lễ truyền lô là đến phần ban yến (đãi tiệc) cho các tân tiến sĩ. Khoa thi tiến sĩ đầu tiên vào năm Minh Mạng thứ ba (1822), yến tiệc được mở tại công đường bộ lễ.

Sau khi dùng tiệc xong, các tân tiến sĩ được nhận phẩm vật ban thưởng, thường là trâm hoa (hoa để cài) nhưng chia loại: vàng, bạc, lụa màu. Yến tiệc cũng như phẩm vật này chỉ mang tính tượng trưng, vì người tài thì cần sự đề cao danh tiếng hơn là vật chất ban cấp.



 
Nguyễn Đương sưu tầm, tổng hợp từ Internet